Chương 8: Ẩn tàng băng vực Chương 8
Truyện: Ẩn Tàng Băng Vực
Chúng tôi thì vẫn vây quanh bầy chim, nhìn tới nhìn lui, say sưa như thể đang xem show thực tế.
Ước chừng hơn nửa tiếng sau.
“Đi thôi,” – Kỳ Tu cười nói, rồi ngẩng đầu nhìn bầu trời, hơi cau mày – “Thời tiết sắp trở xấu rồi.”
Khi đi ra, trời vẫn quang đãng, bầu trời không một gợn mây, cảnh sắc mênh mang tĩnh lặng.
Không ngờ chỉ vừa quay lại, gió đã nổi lên.
Tuyết trắng cuồn cuộn kéo đến, băng vụ hỗn loạn gào thét khắp trời, gió lốc mang theo những mảnh băng vỡ tạt thẳng vào mặt. Trắng xoá một mảnh, chẳng thể nhìn rõ nổi con đường phía trước.
Giọng nói lo lắng của Kỳ Tu vang lên giữa cơn gió tuyết, tựa như từ rất xa vọng tới:
“Theo sát nhau! Là bão tuyết!”
Gió lạnh cứa vào mặt như lưỡi dao mỏng, buốt tận xương. Tôi phải rúc mặt vào sau lưng Đại Trương để che chắn.
Xe bánh xích phát ra tiếng “kẽo kẹt, kẽo kẹt” giữa cuồng phong, tay lái cứng đờ đến mức không thể điều khiển, cuối cùng chúng tôi buộc phải xuống xe, tự mình dò đường đi tiếp.
Phía trước chỉ còn một màu trắng mù mịt, chẳng thấy được gì. Chúng tôi bước đi như người mộng du trên nền tuyết, cho đến khi nghe thấy tiếng lão Mã quát lên giữa tiếng gió:
“Bên này! Tránh gió! Mau đến đây!”
Tôi và Đại Trương lảo đảo lần theo hướng giọng nói, phát hiện phía trước có một sườn băng lớn, dưới chân có thể tạm trú.
Đại Trương quay lại kéo lấy tay tôi, vừa gập người tránh gió vừa cố gắng lôi tôi tới nơi.
Cơn bão bị sườn băng chắn lại phần nào, lúc này tôi mới có thể hít thở trở lại.
Lão Mã đưa mắt nhìn xung quanh, lau một lớp băng mỏng trên mặt rồi cau mày, sắc mặt tối sầm:
“Hỏng rồi.”
Tôi đảo mắt nhìn quanh, mới nhận ra – ngoài màn tuyết trắng xoá và sương mù, chẳng còn thấy bóng dáng ai khác.
Toàn đội khảo sát… đã mất hút.
Ngoài tiếng gió, chỉ còn tiếng gió.
Bên dưới sườn băng, chỉ còn lão Mã, tôi, Đại Trương và Hà Lệ Lệ.
Tiểu Trương cũng biến mất.
Một luồng hoảng loạn trào lên trong lòng tôi.
Chúng tôi… lạc đường rồi.
Gió lạnh cứ thế rít gào từ dưới đất trồi lên, tuyết bông và vụn băng lẫn lộn, quất lên mặt bỏng rát, mỗi tấc da thịt để trần đều như bị dao cứa.
Tôi phải rúc đầu vào khăn quàng, thu người lại, ngồi núp sau lưng Đại Trương – thân hình to lớn của anh là một bức tường chắn gió tự nhiên.
Dưới sườn băng, chúng tôi chờ hai tiếng đồng hồ, gió mới dần dịu lại.
Trời đất trở nên yên ắng, chúng tôi đứng lên, đưa mắt nhìn quanh – rồi đồng loạt biến sắc.
Chung quanh là một vùng trắng xoá vô tận.
Ngoài băng tuyết giống hệt nhau, không còn bất kỳ dấu tích nào.
Xe bánh xích, đội khảo sát, tất cả… đều biến mất.
Mọi người nhìn nhau trân trối, không ai biết phải làm gì.
Khi rời đi, rõ ràng mọi thứ vẫn bình thường, ai ngờ lại gặp phải cảnh thế này?
Trong thế giới băng tuyết này, nếu thật sự không tìm được đường về, chẳng phải chỉ còn nước chờ chết?
Không khí lặng ngắt. Hà Lệ Lệ há miệng thở dốc, nhưng không nói nổi câu nào.
…
Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía lão Mã, chờ ông lên tiếng.
Ông run rẩy lôi bật lửa từ túi áo ra, đánh mãi không lên lửa.
Mãi đến khi khó nhọc châm được điếu thuốc, ông rít một hơi sâu, rồi trầm giọng nói:
“Tôi nhớ tọa độ trạm khảo sát. Theo tôi.”
Cả nhóm thở phào.
Quả nhiên là già gân, vẫn còn dùng được.
“Vậy còn Tiểu Trương?” – Tôi nhíu mày.
Cậu ta bị lạc trong cơn bão. Trong môi trường băng hàn thế này, một mình cậu chẳng khác nào bị tuyên án tử.
Lão Mã suy nghĩ rồi nói:
“Trước tiên tìm quanh khu vực này. Nếu không thấy thì về trạm xin cứu viện.”
Chúng tôi chia nhau ra, gọi vang giữa cánh đồng tuyết mênh mông:
“Tiểu Trương! Trương Quy!”
“Trương Quy ——!”
Tìm suốt gần một tiếng đồng hồ, vẫn không thấy gì.
Cả đội khảo sát và Tiểu Trương như bốc hơi khỏi nhân gian.
Chúng tôi đành phải theo lời lão Mã quay về trạm khảo sát, dự định xin viện trợ.
Nhưng lão Mã tuổi đã cao, lại mệt sau cả ngày di chuyển, bước chân chậm chạp, cứ đi một bước là thở dốc.
Chúng tôi không nỡ hối thúc, đành chầm chậm bước theo sau.
Băng nguyên Nam Cực vốn lạnh nhưng tuyết tương đối cứng, đi lại còn dễ dàng.
Thế nhưng sau trận bão, mặt đất phủ thêm một lớp tuyết dày, trơn trượt và mềm nhũn, mỗi bước đi đều vô cùng nhọc nhằn. Giày tôi ướt lạnh, ngón chân tê buốt như kim châm.
Chúng tôi cứ thế bám theo lão Mã, đi từng bước một, lặng lẽ như một đàn chim cánh cụt đơn độc giữa trời trắng.
Lúc đến hồ Terry, chúng tôi chỉ mất chưa đến một tiếng đi xe bánh xích.
Vậy mà lúc quay về, đã đi mấy tiếng đồng hồ mà vẫn chưa thấy bóng dáng trạm khảo sát đâu.
Trong lòng mọi người dấy lên dự cảm chẳng lành, sắc mặt ai nấy dần trở nên khó coi.
Đại Trương lén khều tôi, thì thầm:
“Có phải… chúng ta bị lão Mã dắt đi lạc rồi không? Mẹ nó… đừng nói là lạc thật nha?”
Lòng tôi cũng rối như tơ vò, đành tự trấn an anh và cả chính mình:
“Không đâu, chắc là gần đến rồi.”
“Thầy còn bao lâu mới đến nữa… chân em đau quá trời rồi.” – Hà Lệ Lệ rên rỉ bên cạnh.
Lão Mã dường như chẳng nghe thấy gì, im lặng đi phía trước, còn rảo bước nhanh hơn.
Nếu cứ đi như thế này, cả bọn chỉ e sẽ chết cóng ngoài trời – mấy chục độ âm.
Tôi và Đại Trương liếc nhau, trong lòng mơ hồ, vừa lo vừa sợ, không biết nên làm gì.
Thêm hơn hai mươi phút lê bước giữa cái lạnh cắt da, cuối cùng khi cả bọn đã kiệt sức, từ xa hiện ra một hình khối lớn màu đen nằm bất động trên mặt biển.
Tôi mừng rỡ.
Không thấy trạm khảo sát, nhưng chí ít vẫn còn có tàu phá băng.
Trên tàu có người, có thiết bị, có thể nghỉ ngơi. Mai gọi Kỳ Tu lái xe bánh xích tới đón cũng chưa muộn.
Hà Lệ Lệ cũng phấn chấn hẳn, vừa nãy còn cà nhắc, giờ lại chạy trước mấy bước.
Chỉ có lão Mã là vẫn yên lặng, không nói một lời.
Tôi thầm nghĩ: Đúng là lão Mã bản lĩnh, trí nhớ không tồi.
Dù không đến đúng chỗ, nhưng tìm được tàu phá băng là quá ổn rồi.
Chỉ có điều… tôi chợt cảm thấy có gì đó là lạ.
Chiếc tàu kia… hình như to hơn lúc trước?
Và rõ ràng tôi nhớ… tàu của chúng tôi là màu đỏ.